Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2012

Sự Hiện Hữu Của Ma Quỷ

Symbol of Satan
Biểu hiệu của Satan
Ma quỷ thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: hung dữ, gian ác, lừa dối, giảo quyệt và cũng có thể được ngụy trang dưới lớp áo của một thiên sứ sáng láng tốt đẹp. Nhưng dù thể hiện dưới bất cứ hình thức nào, ma quỷ cũng đều là hiện thân của Satan. Satan chu du khắp thế gian dùng mọi thủ đoạn để dụ dỗ loài người sa vào bẩy sập của chúng. Satan chính là con rắn xưa đã cám dỗ tổ phụ loài người là Ê-va và A- đam, phạm tội bất tuân với Đức Chúa Trời, do đó chúng bị trừng phạt và nhận chịu sự rủa sã của Ngài.

Sự hiện hữu của ma quỷ thường bị xem là hoang đường, phản khoa học, nhưng đa số người vẫn tin rằng sau khi chết người ta biến thành ma khiến cho người sống phải kinh sợ. Nhưng nỗi sợ hãi càng lớn bao nhiêu thì trí tò mò càng bị kích thích bấy nhiêu. Theo niềm tin đơn sơ của người bình dân ma quỷ là linh hồn người chết mà họ thường gọi là “ma”. Nhưng Kinh thánh Cơ-đốc giáo khẳng định ma quỷ là thiên sứ được Đức Chúa Trời tạo dựng nên, trước khi Ngài tạo dựng ra loài người, vì phạm tội chống nghịch Đức Chúa Trời nên bị Ngài đuổi ra khỏi thiên đường và trở thành maquỷ để đi phá phách và dụ dỗ loài người theo chúng. Dưới đây là những câu chuyện có thật, đã xảy ra trong xã hội Việt Nam. Chúng tôi xin lược kể lại hầu giúp quý đọc giả nhận rõ được bộ mặt thật của ma quỷ và quyền lực đen tối của chúng.
I/ - Những hiện tượng kỳ quái:
1 - Câu chuyện thứ nhất: “Xác cô Năm”
Vào khoảng năm 1980 diện tích đất dư thừa còn nhiều, nhà cửa xây cất đơn sơ và thưa thớt, đa số là nhà lợp lá, nền làm bằng đất nén, chưa có hệ thống điện nên người dân phải sử dụng dầu hỏa để thắp sáng, không gian âm u tĩnh lặng thuận lợi cho ma quỷ xuất hiện và lộng hành.
Vào khoảng thời gian ấy tôi không phải là Cơ-đốc nhân vì chưa được biết Đức Chúa Trời. Nhà tôi nằm trong một khu xóm lao động, dân cư đông đúc, phức tạp, gồm đủ các thành phần trong xã hội. Trong xóm có một nhân vật thường được người ta gọi là “Xác cô Năm”. Bà này hành nghề đồng bóng nhập cốt. Hàng ngày, chúng tôi nhìn thấy ngôi nhà của “Xác cô Năm” thường xuyên có nhiều người vào ra tấp nập. Đó là những người mà người ta cho là bị ma nhập và họ mang đến cho “Xác cô Năm” trừ tà ma quỷ ám. Lúc đầu có nhiều người hiếu kỳ đến xem; về sau, quen dần nên chẳng mấy ai quan tâm đến nữa.
Một hôm, sự xuất hiện của một người đã kích thích trí tò mò của tôi, vì đó là một đảng viên cộng sản, một người vô thần. Ông này không tin có ma quỷ, nhưng sự việc xảy ra với người vợ là một điều ông không thể lý giải được. Người vợ ông ta mắc phải một chứng bệnh kỳ lạ. Những lúc bình thường, tình trạng của người vợ không có dấu hiệu gì của bệnh tâm thần, nhưng có những lúc bà ấy mất sự điều khiển của lý trí như: ăn nói lãm nhãm, la lối, tóc tai rũ rượi, múa máy tay chân, cơ thể suy nhược, và rất hung dữ. Nhiều lần bà vô cớ hành hung người khác. Vì đây không phải là một vấn đề thuộc sinh lý học, do đó việc chữa trị của bệnh viện tâm thần không hiệu quả.
Thường thường, người bị quỉ ám rất hung dữ như Kinh thánh Ma-thi-ơ có chép:
Đức Chúa Jesus qua bờ bên kia rồi, tại xứ dân Ga-da-ra, gặp hai người bị quỷ ám ở nơi mồ đi ra, bộ dữ tợn lắm, đến nỗi không ai dám đi ngang qua đường đó.” (Ma-thi-ơ 8:28)

  Người vợ của ông cán bộ này cũng hung dữ như Thánh kinh mô tả khiến cho ông phải nhiều phen điêu đứng. Cuối cùng ông cán bộ này chỉ còn cách là tin có ma quỷ nhập vào xác vợ ông. Đã có lần, ông nghe theo sự bày vẽ của những người quen biết trong xóm và thử dùng nước bẩn lấy từ cống thoát nước tạt lên đầu vợ, vì mọi người đều cho rằng, làm như thế sẽ trừ được tà ma. Nhưng việc làm này lại càng khiến cho bà bị hành xác nhiều hơn. Không còn cách nào khác, ông đành phải mời pháp sư đến nhà ếm bùa lổ bang và nghĩ rằng phương pháp này sẽ chế ngự được ma quỷ. Nhưng không ngờ sự việc lại trở nên trầm trọng hơn, vì đã làm cho bà khó thở, vật vã, tự hành xác và khóc la thãm thiết.
Ông cán bộ không thể chịu đựng hơn được nữa, nhưng có lẽ e sợ bị đảng phê bình kiểm thảo vì sự mê tín ma quỷ nên ông cứ lần lựa mãi. Cuối cùng, ông nghe theo lời khuyên của nhiều người và tìm đến “Xác cô Năm” để nhờ trừ ma quỷ cho vợ, dù phải tổn phí bao nhiêu tiền ông cũng chấp nhận.
 “Xác cô Năm” cho người bệnh ngồi trên giường, trong tư thế hai ống chân duỗi thẳng. “Xác cô Năm” đặt một đĩa bánh giữa hai bàn chân người bệnh. Thật kỳ lạ! Như có một sự điều khiển của một thế lực vô hình nào đó, hai ngón chân cái của bệnh nhân tự động uống cong vào đĩa bánh trong khi hai ống chân vẫn bất động.Tôi không còn tin vào đôi mắt của mình, cố căng mắt để quan sát thật kỷ sự việc đang diễn ra trước mắt nhưng không thể lý giải được! Tôi chỉ biết là đang có một thế lực vô hình nào đó hành động.
“Xác cô Năm” dùng một cái lọ và nhỏ nhẹ, dỗ dành bảo tà linh hãy chui vào và còn trấn an tà linh đừng sợ gì cả. Sau đó “Xác cô năm” đậy kín nút lọ và dùng một tờ giấy có vẽ chữ, gọi là “bùa” để dán lên miệng lọ và quay lại bảo bà vợ ông cán bộ hãy yên tâm vì “xác cô Năm” đã nhốt “con ma” vào lọ. Bà vợ ông cán bộ vẫn còn mang dáng vẽ ngơ ngác của một người vừa ra khỏi cơn mê. Bà không còn khóc la và ngỏ lời cám ơn “Xác cô Năm”. Ánh mắt nhìn của bà dần dần trở lại bình thường không còn mang vẽ hoảng sợ như lúc trước.
 Qua Thánh kinh, chúng ta được biết ma quỷ cũng có thể làm được những việc khác thường và ban bố cho con người một số khả năng đặc biệt nào đó. Sách Công vụ các sứ đồ cũng có ghi chép lại đoạn kinh thánh sau:
Một ngày kia, chúng ta đi cầu nguyện, gặp một đứa đầy tớ gái bị quỷ Phi-tôn (1) ám vào, hay bói khoa, làm lợi cho chủ nó” (Công vụ các sứ đồ 16:16).
          Người đầy tớ gái trong câu chuyện Kinh thánh trên cho chúng ta thấy tà linh đã cho người đầy tớ gái kia một khả năng tiên đoán các sự việc sẽ xảy ra, là một điều vượt trội hơn chính sự hiểu biết thực của cô ta. Chúng ta được biết thiên sứ vốn là một giống loài được Đức Chúa Trời tạo dựng nên trước khi Ngài tạo dựng ra loài người, và cũng được Đức Chúa Trời ban cho một số quyền phép nhất định, vì thế họ rất khôn ngoan. Satan là thiên sứ trưởng, quyền phép cao cường nên sinh lòng kiêu căng, phản nghịch chống đối Chúa, trở thành tà thần gọi là ma quỷ. Do vậy, ma quỷ rất xảo quyệt và khôn ngoan, thường dùng đủ mọi thủ đoạn để dụ dỗ loài người sa vào quyền lực đen tối của chúng hầu cho loài người phải cùng chung số phận với chúng trong hỏa ngục tăm tối. Loài người yếu đuối kém đức tin, nếu không biết nương cậy Chúa sẽ sa vào bẫy sập của Satan, từ đó sinh lòng mê tín vào những chuyện đồng bóng huyền hoặc, bói khoa, thầy bùa, thầy pháp, v.v.  Vì vậy, dùng lý trí suy xét, chúng ta suy ra: “Xác cô Năm” chỉ là một con người, không thể nào có nhiều quyền phép hơn ma quỷ để có thể gạt gẫm được tà linh ma quỷ như gạt gẫm một đứa trẻ làm cho chúng phải ngoan ngoãn chui vào lọ để chịu nhốt, trừ khi được chúng cho phép làm điều đó vì mưu đồ riêng của chúng.
2 – Câu chuyện thứ hai: Tà linh ẫn hiện
Sau khi chứng kiến những sự việc xảy ra như vừa kể trên tôi cảm thấy lòng bất an nên dời nhà đến gần một ngôi chùa và tin rằng, ở cạnh ngôi chùa, tôi được che chở bảo vệ và sẽ an toàn hơn. Nào ngờ, tôi lại phải chứng kiến nhiều sự việc còn kinh khiếp hơn! Tại nơi đây tôi quen một người láng giềng, thường gọi là bà Tư, bà cho biết đã tu theo đạo Phật hơn mười năm và ăn chay trường. Bà có xây cất một cái am nhỏ kề cận vách phải nhà tôi để hằng đêm luyện công tu niệm. Phía trước am có một cây bồ đề lâu năm mà theo lời bà, rất linh thiêng vì nằm ngay chánh điện của ngôi chùa. Nhưng không hiểu vì sao chỉ vài tháng sau đó bà Tư bán lại cái am cho một người gọi là chú Thành. Tôi cảm thấy dường như có một điều bí ẩn bà che giấu.
Chú Thành sửa sang cái am thành một ngôi nhà nhỏ vừa đủ cho sinh hoạt gia đình. Vì chú Thành hành nghề tài xế xe chở gạo nên cứ vài hôm lại thấy mang về nhà một bao gạo khá lớn; gạo thừa thải đủ để nuôi thêm một con heo và một con chó. Sự việc kỳ lạ đầu tiên xảy ra trong ngôi nhà chú Thành là: đứa con nhỏ của chú Thành thường xuyên ốm đau, vợ chú cúng vái thì bệnh lại khỏi. Có lẽ vì thế mà trước sân nhà chú Thành lúc nào cũng thấy có bày một mâm hoa quả và vài nén nhang cúng. Thêm một chuyện nữa, con heo nuôi được hơn ba tháng, dù được chăm nuôi rất đầy đủ, thức ăn lúc nào cũng thừa mứa, nó lại ăn rất khoẻ, nhưng chẳng những nó không tăng trưởng mà ngược lại, mỗi ngày cứ teo rút lại một cách bất bình thường, vì thế thiếm Thành rất tức tối. Đã như vậy, con chó trong nhà cũng có những hành động kỳ quặc như: mang tất cả cơm thừa đi chôn, kể cả cơm còn trong nồi. Nếu nồi cơm để dưới đất, nó dùng hai chân trước cào đất thành một lỗ và tha cơm thừa bỏ vào đấy lấp đất lại. Tôi thường xuyên chứng kiến hành động này của con chó. Chú Thành nghĩ rằng: cái nghèo sẽ đeo đẳng chú mãi, nếu những tổn thất này không được ngăn chặn, vì thế chú Thành đành bán lại ngôi nhà cho người bạn đồng nghiệp tên Hải.
Tuy rằng anh Hải có nghe và biết được lịch sử ma quái của ngôi nhà, nhưng Hải không e ngại vì tin vào người cha vợ làm pháp sư. Ông pháp sư mang một loại bùa gọi là “bùa lỗ bang” đến ếm ngay dưới gốc cây bồ đề, niệm thần chú sau đó chặt bỏ cây và sửa cửa chính của ngôi nhà xây qua hướng khác. Cùng thời điểm nầy bà Tư lại ngã bệnh. Bà đổ lỗi cho việc đốn bỏ cây bồ đề tác động đến tâm linh của bà, vì thế làm cho bà phát bệnh. Bà Tư rất căm tức nhưng không có lý do gì để ngăn cản việc làm này. Một hôm, trông thấy tôi, bà Tư gọi lại để phân bua. Tôi trông thấy đôi mắt bà nhìn láo liên một cách không bình thường. Đột nhiên trong lòng tôi phát sinh một cảm giác rờn rợn. Tuy vậy vì nễ nang, tôi vẫn tiến đến gần bà. Bà khóc sướt mướt và thốt lên: “Phật chết hết rồi cô ơi”! Tôi nghĩ rằng bà Tư đã bị ma quỷ ám lúc còn tu niệm trong cái am mà bà cho rằng có cây bồ đề linh thiêng.
Ø Ngôi nhà ma với sự lộng hành
Gia đình anh Hải trú ngụ chưa đầy ba tháng, chẳng biết vì nguyên nhân gì mà người ta thấy nhà anh cứ thường xuyên thay đổi hướng cửa đi và hướng bếp. Nhưng người trong gia đình rất kín tiếng, không tiết lộ cho người ngoài biết chuyện gì đã xảy ra trong ngôi nhà, vì e rằng sẽ bất lợi cho việc mua bán sau này. Anh Hải âm thầm tìm người bán lại ngôi nhà. Lấy lý do về quê sinh sống nên cần bán rẻ ngôi nhà, Hải bán lại cho một gia đình khác có biệt danh Mười Nem, vì ông này chuyên mổ heo lấy thịt làm nem. Mười Nem là một người nhanh nhẹn và siêng năng. Hàng ngày, cứ 3 giờ sáng gia đình ông đã thức sớm giết heo lấy thịt làm nem, phần thịt còn thừa thì mang ra chợ bán sĩ lại cho bạn hàng. Việc làm ăn của gia đình ông Mười Nem cứ tiến triển đều đặng như thế, xem như rất khấm khá. Nhưng, chưa đầy một tháng sau đó, vào lúc trời đang sâm sẩm tối, tứ bề yên lặng bỗng đâu từ nhà ông Mười Nem phát ra tiếng la lớn của bà Mười Nem: “Nhà nầy tao đã mua là nhà của tao, bây có quyền gì đuổi tao, biết điều phò hộ thì tao cúng cho ăn bằng quậy phá tao chém bỏ mẹ, biết khôn hãy dang xa tao ra!”
Lúc đầu, khi nghe tiếng la hét của bà Mười Nem, người ta ngỡ rằng bà Mười đang dạy biểu gì cô cháu gái. Nhưng hàng ngày, cứ đúng vào lúc trời vừa sâm sẩm tối, từ nhà bà Mười Nem lại vọng ra tiếng la hét. Về sau người ta mới biết, thì ra bà Mười đang la hét đuổi ma đuổi quỷ. Có người còn nhìn thấy bà Mười tay cầm dao mổ heo múa men, miệng la lối ỏm tỏi. Khi được người hỏi thăm sự tình, bà Mười cho biết: Mỗi ngày, vào lúc sáng sớm và chiều tối thường có bóng của hai người phụ nữ, một cô gái mặc quần áo trắng và một người đàn bà mặc quần áo đen chân đi không chạm đất đến nhà đuổi bà đi nơi khác ở và nói rằng, đây là nơi trú ngụ của chúng. Bà không đồng ý nên lấy dao rượt đuổi chúng
Về phần ông Mười Nem, vì còn bán tín bán nghi nên một buổi sáng ông thức giấc sớm hơn mọi ngày, giết heo xong ông giao cho thợ làm tiếp những công đoạn còn lại và lên giường tiếp tục dỗ giấc ngủ. Bất thình lình, người ta nghe thấy ông vật vã trên giường, miệng phát ra tiếng kêu en ét như heo bị chọc tiết mà mắt thì vẫn nhắm nghiền. Tiếp sau đó từ trên giường ông ngã lộn nhiều vòng xuống đất. Vợ con lớn tiếng kêu khóc làm ông Mười giật mình tỉnh giấc, mắt đã mở nhưng miệng vẫn ú ớ, ngơ ngẩn như người mất hồn. Vẻ kinh hoàng còn hiện rõ trên khuôn mặt, ông kể lại rằng, đã vật lộn với một con quỷ áo trắng rất hung dữ. Sự việc xảy ra lần này đối với ông Mười Nem khiến cho tinh thần của ông bị bấn loạn nên ông dự định bán nhà đi nơi khác để thoát khỏi lũ ma quỷ này.
Ø Câu chuyện đứa cháu gái
Vài ngày sau, người cháu gái của ông Mười Nem lại mắc phải một chứng bệnh lạ lùng, thần sắc ngớ ngẩn đần độn, lười biếng một cách khác với thường lệ, suốt ngày không làm được việc gì, ăn xong thì ngủ, tỉnh giấc lại vào bếp sục soạn thức ăn. Bà Mười bực tức không để trong lòng được nên phải bộc lộ với hàng xóm. Hàng xóm nghĩ tình láng giềng sang thăm viếng. Họ chứng kiến cảnh cô cháu gái bà Mười với ánh mắt láo liên, tay vọc vào nồi cơm bóc thức ăn tưởng chừng như rất đói. Cô ta ăn hết sạch nồi cơm lại đảo mắt nhìn lên bàn thờ. Thấy nãi chuối lớn có khoản gần hai mươi trái, cô gái vói tay lấy dĩa chuối xuống và ngồi bệt dưới đất tiếp tục ăn cho đến khi không còn một trái nào; sau đó lại còn uống thêm một ly lớn nước. Mọi người nhìn nhau, không hiểu làm thế nào mà cái dạ dày bé nhỏ của cô gái có thể chứa được hết từng ấy thức ăn. Thấy cô gái đã ăn xong, bà Mười Nem bảo cô gái chào mọi người, nhưng cô gái lắc đầu và lại nằm phịch xuống đất tiếp tục ngủ. Điều kỳ lạ là mang cô gái ra khỏi ngôi nhà thì căn bệnh quái quỷ biến mất, đưa trở lại nhà thì sự việc lại xảy ra như cũ. Cuối cùng, bà Mười Nem phải mang cô gái về quê trả lại cho cha mẹ cô ta.
Kể từ đó, ngôi nhà có tiếng là “ngôi nhà ma”.
Câu chuyện cô cháu gái bà Mười Nem vừa kết thúc, giờ lại đến công việc làm ăn của ông Mười Nem gặp khó khăn, cuộc sống bế tắc. Ông Mười Nem phải bán nhà để trừ nợ cho chủ nợ là ông Ba Gà. Ông Ba Gà có một người con trai đã có gia đình, người vợ đang mang thai nên ông Ba có ý muốn cho con trai và con dâu ra sống riêng, để con dâu không phải vất vả với công việc làm dâu. 
Ø Khi ma quỷ hành động
Thế là hai vợ chồng trẻ và một đứa em trai 16 tuổi lại được vào sống trong ngôi nhà mới. Khởi đầu, ngôi nhà trông rất vui mắt và đẹp hẳn lên vì được trang hoàng lại rất mỹ thuật. Gia đình mới sống rất vui vẽ và hạnh phúc. Người chồng là thủ kho của cơ quan nên phải đi trực ban đêm, cô vợ trẻ ở nhà ngủ nhà trước, người em trai ngủ ở nhà sau. Đêm hôm ấy, cô vợ nằm mơ thấy người đàn bà áo đen cùng cô gái áo trắng đến đuổi đi, lại còn nói: “Phụ nữ ngủ nhà sau để con trai ngủ nhà trước”.
Người vợ chống cự không lại, thấy mình thất thế đành phải ôm mền gối ra nhà sau ngủ. Sáng hôm sau thức dậy, lại cứ ngỡ chỉ là một giấc mơ, nào ngờ cô nhận ra mình đang ngủ ở nhà sau thật còn cậu em trai lại đang ngủ nhà trước! Để kiểm chứng xem mình có mắc bệnh mộng du hoặc ảo giác gì không, hôm sau cô vợ lại vẫn cứ ngủ nhà trước còn cậu em trai vẫn ngủ nhà sau. Đến sáng thức giấc, cô vợ lại thấy mình đang ngủ nhà sau! Quá sợ hãi trước hiện tượng kỳ lạ này, người vợ viện lý do: sự sợ hãi của cô sẽ ảnh hưởng thai nhi nên xin phép về nhà cha mẹ ruột để sinh nở, còn cậu em trai cũng không dám ở phải bỏ nhà đi nơi khác. Ông Ba Gà nghĩ rằng, một ngôi nhà bị bỏ hoang phế sẽ là cơ hội cho ma quỷ lộng hành dữ dội hơn nên ông cho hai cậu sinh viên nghèo vào ở trọ miễn phí.
Trong thời gian hai cậu sinh viên này ở, người ta không nghe thấy có động tĩnh gì khác lạ hai cậu vẫn đi học bình thường, sáng đi, tối lại về ngủ. Có người tò mò nghĩ rằng, có lẽ “ma nữ” thích con trai chăng. Hỏi thăm thì chỉ được nghe trả lời, không sao cả, chỉ bị nắm tay, kéo chân chút ít vậy thôi! Hơn nữa, hai cậu cũng chỉ ở tạm cho đến hết học kỳ rồi trở về quê nhà.  
Trong vòng hai năm, ngôi nhà được mua đi, bán lại nhiều lần. Sự quậy phá của tà linh vẫn tiếp diễn không ngừng, chẳng những chỉ riêng ngôi nhà ấy bị tà linh xâm chiếm mà cả đến những dãy nhà kế cận cũng là mục tiêu tấn công của tà linh. Kể cả chính bản thân tôi cũng đã mắc phải một căn bịnh kỳ quái (xin mời quý đọc giả xem bài “Công quả”, đã đăng trên hoptinhhoply.net theo địa chỉ:
Và sau đây, xin mời quý đọc giả xem câu chuyện của bà Tư, là người chủ đầu tiên của “Ngôi nhà ma quái”.
Ø Câu chuyện của bà Tư
Bà Tư là người chủ đầu tiên của ngôi nhà ma, mà trước đó đã từng là một cái am thờ cúng tà linh của bà. Chính bản thân bà cũng là một trong số những người bị tà linh quậy phá.
 Khi sự lộng hành của ma quỷ bắt đầu xuất hiện, bà Tư mắc phải chứng bệnh suy nhược cơ thể. Bác sĩ khuyến cáo bà phải từ bỏ việc trường chay, chuyễn sang ăn mặn thì mới có cơ hội phục hồi sức khỏe, song sự từ bỏ trường chay đối với bà đồng nghĩa với sự kết thúc quá trình tu niệm. Bà Tư tâm sự với tôi về một người bạn già, gọi là bà Sáu. Bà nầy giao du với ma quỷ mà bà gọi là “thần quyền”. Bà Sáu là một cán bộ cao cấp, giàu có, con cái đề huề, nhưng hàng ngày, từ lúc sáng sớm, bà tảo bộ vòng quanh thành phố Cần thơ, tay quơ qua, quơ lại, miệng lầm thầm rì rầm như người mất trí. Bà Sáu tin rằng, mình đang mang một trọng trách đặc biệt phải đi gom góp những linh hồn vất vưởng tụ hội về một nơi, mà bà gọi là những “âm binh”. Bà Sáu tu hành theo một tà phái gọi là “Ngũ hành trăm quan”. Bà nói với bà Tư, hàng đêm bà nhận thông tin từ những “âm hồn” ở các tỉnh khác, bằng tiếng nói của người cỏi âm, báo cáo cho bà về số lượng những “âm binh” tìm thấy được ở các tỉnh khác. Bà Tư thương bạn nên khuyên bà Sáu từ bỏ “thiên tướng âm binh” là tà đạo mà quay về tu theo “Phật thâm thâm diệu diệu” như bà. Nhưng bà Sáu rất tức giận và nói: ” Phật cao một thước ma cao một trượng, để rồi coi giữa bà và tôi ai cao thấp hơn ai, hãy chống mắt lên mà xem !”
Lời nói của bà Sáu đã tác động mạnh mẽ lên tinh thần của bà Tư khiến cho bà ấy rất lo lắng. Vài hôm sau bà Tư nằm mơ thấy cha của bà Sáu là quan tướng rất lớn có nhiều người hầu hạ phục dịch, mà bà gọi là “thần quyền”. Ông “thần quyền” này bắt bà Tư đi lấy nước phục dịch cho ông tắm và hành hạ bà vô cùng vất vã cực nhọc.
Tôi nghe câu chuyện của bà Tư, nhưng nghĩ rằng, đấy chỉ là mộng mị nên không quan tâm. Không ngờ bà Tư lại đột ngột chết thật! Tôi thấy máu từ mũi và miệng của bà trào tuôn rất nhiều dường như có một thế lực vô hình nào đó đang chẹn cổ của bà Tư làm cho bà giãy giụa dữ dội trong giây phút cuối của cuộc đời bà. Sự việc trùng hợp cách lạ kỳ này khiến cho tôi phải bận tâm suy nghĩ.
Rồi tôi được gặp lại bà Sáu. Tôi tường thuật lại chi tiết cái chết của bà Tư cho bà Sáu nghe, với mong muốn bà Sáu biểu lộ một chút lòng thương cảm đối với người bạn già, nhưng không ngờ, bà Sáu lạnh lùng thốt ra câu nói: “Ai bảo bả tự phụ quá làm chi!”
Đột nhiên, một cảm giác sợ hãi chợt trổi dậy trong tôi. Tôi nhận thấy, trong con người của bà Sáu có ẩn chứa một thứ tà linh gì đây! Tôi vội vàng nhanh chân rảo bước để thoát khỏi quyền lực đen tối của một thứ tà linh nào đó, nằm ngoài tầm hiểu biết hạn hẹp của tôi. Về đến nhà mà lòng tôi cứ mãi băn khoăn và tự hỏi có ông chân thần nào có đủ quyền phép phán xét những chuyện vô hình như thế nầy và trừng trị được ác thần chăng.
Hôm nay, tôi đã là một Cơ-đốc nhân. Tôi hiểu được ngoài Đức Chúa Trời của Cơ-đốc giáo là Đấng Tạo hóa của vũ trụ và muôn loài sinh linh trên thế gian này ra, không một quyền lực nào có thể trừng trị được tà linh ma quỷ. Để đối phó với thế lực này, Kinh thánh Ê-phê-sô có chép: “Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời để được đứng vững mà địch cùng mưu kế của ma quỷ, vì chúng ta đánh trận chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy” (Ê phê sô 6: 11-12).
II/ - Đoạn kết của những câu chuyện ma
Vào một ngày âm u, trời không mưa nhưng lại có giông gió sấm sét nỗi lên tứ phía. Bổng nhiên từ trên thinh không phát ra một tiếng nổ kinh hoàng làm chấn động cả khu xóm làm ai nấy đều khiếp đảm. Tôi nhìn thấy trên ngọn những cây dừa trước cửa nhà, lữa cháy sáng rực một vùng và phát ra những tia sáng bắn tung tóe như pháo hoa. Cả một hàng dừa trước dãy nhà đều bị cháy đọt, bông và trái rơi rụng tơi tả. Những cây dừa chỉ còn lại những thân cây cháy nám đen. Hàng dừa này là ranh giới giữa ngôi chùa và dãy nhà chúng tôi ở.
Tôi nhận thấy, có một điều kỳ lạ: Ngôi nhà ma nằm đối diện với chánh điện của ngôi chùa và ở phía sau các hình tượng và am miễu mà người ta thờ cúng, nơi luôn được người ta bái lạy tôn kính, đèn nhang, lễ vật hoa quả ê hề. Ma quỷ đã chọn hàng dừa làm nơi trú ẩn, đồng thời để cùng hưởng sự bái lạy và hương hoa dâng cúng của những người mê tín, cả tin. Ma quỷ lợi dụng sự mê tín của loài người để dẫn dụ loài người sa vào bẫy rập của chúng bằng những hình thức đa dạng như: Thiên sứ, Phật, Bồ tát, Đức Mẹ, v.v hoặc bằng những hình thức khác tùy vào sự tin tưởng của mỗi người như đã ghi chép trong II Cô-rinh-tô: “Nào có lạ gì, chính quỷ Satan mạo làm thiên sứ sáng láng” (II Cô-rinh-tô 11:14). Một người khi đã sa vào bẫy sập của ma quỷ, có thể được chúng ban bố cho một thứ quyền phép đen tối như: chữa được bệnh, tiên đoán được những sự việc sẽ xảy ra hoặc một khả năng khác thường nào đó để phục vụ cho mục đích đen tối của chúng. Sau cùng thì người ấy đã trở thành nô lệ của Satan để cùng chịu chung số phận với chúng sau này: “Còn ma quỷ là đứa đã dỗ dành chúng thì bị quăng xuống hồ lữa và diêm trong đó đã có con thú và tiên tri giả rồi. Chúng nó sẽ phải chịu khổ cả ngày lẩn đêm cho đến đời đời” ( Khải huyền 20:10).
Sau biến cố mà người trong xóm gọi là “Trời đánh” xảy ra thì người ta không còn thấy ma quỷ xuất hiện và quậy phá như trước nữa. Người ta cho rằng tà linh đã bị “Trời đánh”.
III/ - Kết kuận
Thánh kinh Cơ-đốc giáo xác chứng cho chúng ta thấy sự hiện hữu của ma quỷ là có thật như: Chúa Giê-su dùng quyền phép đuổi quỷ ra khỏi người câm (Ma-thi-ơ 9:32–33), Chúa chữa bệnh đui và câm cho người bị quỷ ám (Ma-thi-ơ 12:22), Chúa đuổi quỷ ra khỏi đứa trẻ bị phong điên (Ma-thi-ơ 17 : 18), v.v. Ma quỷ cũng có thể ban bố cho con người chút ít khả năng đặc biệt như cho người đầy tớ gái trong (Công-vụ 16:16-18) khả năng bói khoa làm lợi cho chủ. Vì thế chúng ta cần mời Đức Chúa Thánh Linh ngự vào lòng, một người của Chúa không thể bị ma quỷ nhập vì: “Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Đức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Đấng mà anh em đã nhận bởi Đức Chúa Trời, và anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao? (I Cô-rinh-tô 6:19).
Qua những câu chuyện vửa kể trên, chúng ta nhận thấy tất cả những nhân vật bị ma quỷ chọn làm mục tiêu tấn công đều là những người mở lối cho ma quỷ vào lòng, qua việc sùng bái, thờ cúng thần tượng và những hoạt động huyền bí thuộc về ma quỷ từ đó dẫn đến việc bị chúng theo đuổi và ám. Việc thờ cúng thần tượng có liên quan đến ma quỷ nên Đức Chúa Trời đã cấm dân Y-sơ-ra-ên thờ thần tượng: “Dân Y-sơ-ra-ên cũng chẳng nên dâng của lễ mình cho ma quỷ nữa, mà thông dâm cùng nó. Điều này sẽ là một định lệ đời đời cho họ trải qua các thế đại” (Lê-vi-ký 17:7). Ông Phao-lô cũng đã dạy: “Chắc là không; nhưng đồ người ngoại đạo cúng tế là cúng tế các quỷ, chớ không phải cúng tế Đức Chúa Trời. Vậy, tôi không muốn anh em thông đồng với các quỷ” (I Cô-rinh-tô 10:20).
Ghi Chú
(1)  Phi-Tôn: Tức là ma quỷ hay bói khoa 

Ngọc Thành. Cần thơ